Mazda vừa tổ chức sinh nhật lần thứ 25 cho dòng xe MX-5, lần đầu ra mắt công chúng vào năm 1989. Chuẩn bị sang thế hệ thứ tư, MX-5 vẫn được đánh giá là một trong những chiếc mui trần nổi tiếng và được ưa chuộng nhất thế giới vì đơn giản, giá rẻ mà vẫn tinh tế.
MX-5, hay còn gọi MX-5 Miata ở một số thị trường, cũng từng được công ty Trường Hải giới thiệu tới khách hàng Việt Nam. Tuy nhiên trong danh sách xe của công ty hiện không thấy liệt kê thế hệ hiện tại của mẫu xe này.
MX-5 thế hệ 1 xuất hiện tại triển lãm ô tô Chicago ngày 10/2/1989. Xe được trang bị động cơ 1,6 lít cho công suất 116 mã lực, hộp số sàn 5 cấp, hệ thống treo độc lập.Thân xe làm bằng thép, mui làm từ nhôm trọng lượng rất nhẹ. Kích thước tổng thể dài, rộng và cao là 3.970 x 1.675 x 1.235mm, trọng lượng 980kg. Trong khoảng thời gian 1989 – 1997, Mazda đã bán được hơn 400.000 xe MX-5.
Đến phiên bản 1994, dung tích động cơ tăng lên 1,8 lít, công suất 130 mã lực. Xe có thể tăng tốc 0-100km/h trong 8,1 giây và đạt tốc độ tối đa 203km/h.
Sau đó, công suất động cơ được tăng lên 133 mã lực cho phiên bản 1996, trọng lượng cũng tăng lên 990kg. Nhìn chung, những chiếc mui trần đầu tiên được thiết kế rất đơn giản với bánh xe thép, chưa có hệ thống điều hòa không khí, trợ lực lái hay cửa sổ quay tay.
Thay đổi đáng chú ý nhất là bộ phận đèn pha. Đèn pha pop –up đã được thay thế bằng đèn cố định. Các kích thước dài, rộng, cao lần lượt là 3.945 x 1.678 x 1.228mm. MX-5 có trọng lượng 1.000kg không kể tùy chọn.
Xe vẫn dùng hệ thống treo độc lập nhưng bánh xe, lốp và phanh được nâng cấp đáng kể. Các xe thể thao được trang bị bánh xe lớn hơn và lốp 195/50VR15. Phiên bản tiêu chuẩn với động cơ 1.8L có thể tăng tốc từ 0-100 km/h trong 7,8 giây, đạt tốc độ tối đa 210km/h.
Năm 1999 cũng là dịp Mazda kỷ niệm MX-5 tròn 10 tuổi bằng chiếc 10th Anniversary Model đặc biệt. Xe tăng tốc chậm hơn nhưng tốc độ tối đa lại cao hơn phiên bản tiêu chuẩn. Xe được người hâm mộ biết đến với “nickname” 10 AM hay 10 AE. Các xe đều được đánh số liên tục kèm theo một “chứng nhận” do chủ tịch James E. Miller thiết kế. Đây là mẫu xe phổ biến và thu hút nhiều chú ý, nhưng hãng mất hơn 1 năm để bán hết hàng.
Đến phiên bản 2001, Mazda “tân trang” cho MX-5 với một số thay đổi. Đèn sương mù tùy chọn giờ đã thành tiêu chuẩn. Động cơ BP-Z3 1.8L cũng được thay đổi cùng hệ thống ống xả. Nhờ đó, xe có thể cho công suất tối đa 152 mã lực (Nhật Bản, Anh, Úc) và 107 mã lực (Mỹ).
2002 là thời điểm MX-5 SP được phát triển và bán ở thị trường Úc với động cơ tăng áp công suất 211 mã lực. Chỉ 100 xe được sản xuất và chúng được cho là đắt đỏ hơn nhiều xe MX-5 tiêu chuẩn nhưng hiệu suất hoạt động tốt hơn.
Năm 2004, Mazda ra mắt Mazdaspeed MX-5 (Roadster Turbo tại Nhật Bản) sử dụng bộ tăng áp và một phiên bản của động cơ BP-4W công suất 180 mã lực. Xe tăng tốc đến 97 km/h trong 6,2 giây, đạt vận tốc tối đa 203 km/h.
Tháng 7/2006, hãng giới thiệu phiên bản chuyển đổi coupe mui cứng với các tên gọi "MX-5 Roadster Coupe" (châu Âu), Roadster Power Retractable Hard Top" (Nhật Bản), "MX-5 MX-5 Power Retractable Hard Top" ở Mỹ và Canada. So với các xe mui mềm, xe mui cứng nặng hơn 36 kg.
Năm 2008, hãng trình làng phiên bản đặc biệt Special Edition MX-5 với mái gấp Dark Saddle Brown, bánh xe hợp kim 430 mm, lưới tản nhiệt, đèn sương mù.
Chiếc xe kỷ niệm sinh nhật lần thứ 20 (20th Anniversary Model) là một phiên bản hạn chế của chiếc MX-5 mui mềm, động cơ MZR 1,8 lít cho thị trường châu Âu.
Để kỷ niệm “sinh nhật” lần thứ 25 của chiếc MX-5, hãng xe Nhật đã công bố một vài thông tin liên quan đến phiên bản chào mừng sự kiện đặc biệt này.
Chiếc MX-5 thế hệ 4 đang được hãng phát triển và sẽ đi theo ngôn ngữ Kodo với những đường nét mạnh mẽ và thể thao.Tuy nhiên, MX-5 mới sẽ không sử dụng lưới tản nhiệt với 5 điểm góc cạnh. Đặc biệt, chiếc xe “đàn em” này cũng được thừa hưởng đường nét trên các dòng xe Mazda 3, Mazda 6 hay CX-5.