Công nghiệp ôtô mong manh của Việt Nam có chiến lược mới

Việt Nam mới đây lại có Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, có thể coi đây là sự thay thế cho Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020 chưa thực hiện được.

 
Với tầm nhìn mới, Việt Nam sẽ ưu tiên 3 nhóm sản phẩm: xe tải và xe khách từ 10 chỗ trở lên phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn và các loại xe khách tầm trung và tầm ngắn chạy liên tỉnh, huyện, nội đô...; xe chở người đến 9 chỗ kích thước nhỏ, tiêu thụ ít năng lượng; xe chuyên dụng như xe chở beton, xe xitec, xe phục vụ an ninh, quốc phòng, xe nông dụng nhỏ đa chức năng. Có những thay đổi nhỏ, song không quá khác biệt so với Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020.
 
Công nghiệp hỗ trợ cho công nghiệp ôtô cũng phải tiếp cận và ứng dụng công nghệ để chế tạo được các chi tiết, linh kiện quan trọng như bộ truyền động, hộp số, động cơ, thân vỏ xe... cho một vài chủng loại xe; tăng cường hợp tác với các hãng ôtô lớn để lựa chọn chủng loại phụ tùng, linh kiện mà Việt Nam có thể sản xuất để đảm nhận vai trò mắt xích trong chuỗi sản xuất - cung ứng toàn cầu, trên cơ sở đó đầu tư công nghệ tiên tiến, sản xuất phục vụ xuất khẩu.
 
Qua đó, đến giai đoạn 2026-2035, ngành công nghiệp phải đáp ứng trên 65% nhu cầu về linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp ôtô trong nước. Điều đó có nghĩa là, trong 12 năm nữa, Việt Nam phải tăng tỷ lệ nội địa hóa từ 10% lên 65% - điều mà chúng ta vẫn chưa làm được trong suốt 20 năm qua. Theo Chiến lược trước đó, tỷ lệ nội địa hóa của tất cả doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước tính đến năm 2010 đều không đạt mục tiêu đề ra. Chẳng hạn dòng xe con dưới 9 chỗ, tỷ lệ nội địa hóa dưới 15% trong khi quy hoạch 50%; xe khách trên 10 chỗ, xe tải, xe chuyên dùng đạt 30% - 40%, trong khi theo mục tiêu là 60%.… Cũng do Việt Nam mới chỉ sản xuất được các linh kiện nhỏ, hàm lượng kỹ thuật chưa cao, còn những “hộp số, động cơ, thân vỏ xe…” vẫn còn là ước mơ của ngành công nghiệp phụ trợ. Mục tiêu giá bán xe phù hợp với túi tiền của người Việt cũng chưa đạt được, thậm chí còn cao hơn so với xe được sản xuất ở những nước có thu nhập lớn hơn Việt. Đó là bởi doanh nghiệp lắp ráp ôtô quá ỷ lại sự bảo hộ của Nhà nước nên đưa ra giá bán cao để thu lãi cao. Thêm vào đó là sự luẩn quẩn của các chính sách khi một mặt muốn phát triển công nghiệp phụ trợ để giảm giá xe, mặt khác lại hạn chế sử dụng ôtô bằng cách áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt. Trong khi đó, công nghiệp phụ trợ chỉ phát triển được khi thị trường lớn, lượng tiêu dùng phải cao. Để lên kế hoạch sản xuất, kinh doanh cũng như đầu tư, các nhà sản xuất phải tính đến mức thời gian tối thiểu là 5 năm, trong khi đó chính sách ở Việt Nam thay đổi... xoành xoạch khiến DN hết sức khó khăn, làm nản lòng các nhà đầu tư.
 
Suốt gần 10 năm thực hiện, quy hoạch phát triển ngành sản xuất ôtô trong nước chưa đạt được những mục tiêu quan trọng như kỳ vọng ban đầu, mà chỉ dậm chân tại chỗ, thậm chí có lúc còn tưởng như vỡ trận.
 
Mục tiêu của chiến lược đặt ra, đến năm 2035, tổng sản lượng xe đạt khoảng 1.531.400 chiếc, trong đó xe đến 9 chỗ khoảng 852.600 chiếc, từ 10 chỗ trở lên khoảng 84.400 chiếc, xe tải khoảng 587.900 chiếc, xe chuyên dụng khoảng 6.500 chiếc. Tỷ lệ số xe sản xuất lắp ráp trong nước chiếm khoảng 78% so với nhu cầu nội địa. Con số 78% không quá khó để đạt được, khi hiện nay Việt Nam đã đáp ứng được khoảng 68%. Tuy nhiên, điều đáng lưu tâm là chủ yếu 68% đó là hàng lắp ráp, chứ chưa hẳn sản xuất đúng nghĩa.  
 
Các biện pháp để thực hiện mục tiêu lần này có “dày” hơn so với Chiến lược cũ, song vẫn là những giải pháp chung chung như thêm Xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, bổ sung các tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo đảm thống nhất… Về cơ bản, hướng đi vẫn tập trung vào ưu đãi thuế và vay vốn. Mà ông Trương Đình Tuyển - nguyên Bộ trưởng Bộ Thương Mại - từng phân tích: “Nếu chúng ta muốn phát triển ngành ôtô thì công cụ duy nhất không phải là bảo hộ thuế. Bởi vì đầu tư nước ngoài đến Việt Nam là đến nơi chi phí sản xuất thấp, chứ không phải đến nơi có hàng rào bảo hộ cao. Cho nên, Việt Nam muốn phát triển ngành công nghiệp ôtô, phải tìm cách để chi phí sản xuất ôtô ở Việt Nam thấp nhất, chứ không phải chỉ là bảo hộ” (theo VOV).
 
Việt Nam từng có Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020 chưa thực hiện được, nay lại có Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. Hy vọng, với tầm nhìn được kéo dài thêm 15 năm, ngành ôtô Việt sẽ tìm được một hướng đi không quá khác biệt so với các nước lân cận cũng như với thế giới.
 
 

Tin tổng hợp

otoxemay.vn